Chú Năm chỉ vào thằng Cù Lao:
- Cái tên của mày cũng là "Cù Lao" hay là " Kì Lao" chi đó. Tao nghĩ phục Cù Lao là đúng hơn. "Đệ tử phục Cù Lao" có nghĩa là học trò phục thằng Cù Lao. Chúng phục mày vì mày bơi giỏi.
Tôi hỏi:
- Còn tôi, chúng cũng phục tôi chớ?
- Chúng đặt vè về mày đó!
Nghe có người đặt vè về tôi, tôi đã lo. Thường người được đặt vè là người bị thiên hạ chê cười. Chú Năm liền tiếp:
- Nó đặt vè về mày thế này này: "Có thằng nhỏ dại, không biết nghĩ suy, cha mẹ hàn vi, cho đi ăn học. Lo mua vở sách, mua sắm áo quần. Trò bỏ ra sông, suốt ngày đánh đá. Xưng hùng xưng bá, nào Triệu Tử Long, nào là Địch Thanh, Quan Công, Hạng Võ. Trâu không có cỏ, gầy tóp đôi hông. Lê la ngoài sông..."
Tôi nói chắn ngang:
- Đừng đọc nữa! Suốt ngày đánh đá để tập đánh Pháp đuổi Nhật đó. Các chú không cho bọn tôi tập tự vệ thì phải tập giật lá chớ. Nè, cái khoản tập bơi để diệt đồn địch, tôi vượt sông rồi đó...
Hình như khoản tập bơi đã thuyết phục được chú Năm, chú nhìn tôi chăm chú:
- Nhưng việc mày bảo là thím mày vô phước mới gặp tao là sai bét. Mày xem từ hôm cách mạng đến nay, tao tiến bộ thế nào! Tao hô hào bà con đi cướp chính quyền. Tao trúng chân chỉ huy tự vệ, trúng ban chấp hành thanh niên. Tao lo việc nuôi quân. Tao thức suốt đêm để làm tằm. Ai cũng công nhận là tao đổi mới. Thím mày đã nói: "Cảm ơn cách mạng đã giác ngộ chồng em". Thế nào? Có phải vậy không Cục?
- Phải! Nhưng mới là chỉ huy tự vệ thôn, chưa sướng. Chỉ huy toàn tỉnh mới sướng, có được khẩu súng đeo bên hông.
- Ớ cái thằng này! Phải thong thả học tập đã chớ. Phần tao như vậy cũng được. Còn phần mày, mày phải học con tằm. Nó rút hết ruột tơ của mình để làm ra cái kén. Kén ta đem ươm, lấy tơ dệt lụa. Đáng thương biết mấy!
* * *
Chú Năm bỗng đứng bật dậy:
- À, tao còn phải đi quanh một vòng để tìm vài thằng Việt gian ẩn núp đâu đây cái đã. Nhiệm vụ đi canh chưa giao cho ai được.
Chú Năm rút gậy đi một lúc rồi quay lại.
Tôi ngáp một cái, nói:
- Buồn ngủ quá chú Năm ơi!
- Mày muốn tao hô bài chòi, nói Lục Vân Tiên, hay nói vè chớ chi! Tao biết trong con tim đen của mày rồi.
- Sao chú biết được con tim đen vậy chú?
- Thì chú cháu mình chớ ai vô đó! Khi tao còn nhỏ, tính tao cũng không nói thẳng những cái mình muốn như mày!
Thường ngày Tết, chú Năm Mùi hô đánh bài chòi hay lắm. Chú đứng bên cạnh bàn đặt giữa đám đất. Trên bàn có đặt một cái ống, trong ống có cắm sẵn ba mươi con bài. Mười cái chòi dựng thành hai dãy hai bên. Trong mỗi chòi đã có người chủ bài. Chú Năm lắc ống bài, rút một con hô to:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dầu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Duyên em dù nối chỉ hồng
May ra khi đã tay bồng tay mang.
Là con... bát bồng.
Tiếng trống lớn, tiếng chiêng nổi lên u, ầm! Tiếng trống nhỏ tom, tom, cắc! Tiếng đàn nhị ò e, ò e! Tiếng mõ lốc cốc! Cờ ngũ sắc bay lại bay qua.
Hết con bài bát bồng, đến con bài ông ầm, rồi con nhứt nọc, con nhì nghèo, con bạch huê, con tam quăng, con tứ gióng... Có lẽ đó là những con vật rất kì dị ở những thế giới thần tiên đâu đâu. Chúng hiện ra từng hàng đầy đủ lông lá, màu sắc huyền ảo.
Chú Năm, hoặc lấy từ trong Kiều, trong Lục Vân Tiên, trong Thạch Sanh và trong các loại vè trên đời, hoặc tự ứng khẩu sáng tác ngay tại chỗ, phục vụ kịp thời. Giọng của chú trầm bổng, ngân nga, reo vui, thanh thoát là tuỳ theo nội dung câu thơ chú hò. Không chỉ chúng tôi quên mệt, quên ăn quên ngủ, mà cả Hoà Phước đều mê cái giọng chú. Chú Năm phục vụ suốt mấy ngày Tết mà không lấy một đồng xu nào cả.
Tôi nói lơ lửng:
- Làm vài câu đi chú!
- Một chữ tao cũng không làm, chớ đừng nói vài câu! Mày nghĩ, cách mạng lên rồi, tao cũng là chỉ huy tự vệ, ai lại đi hô cái đánh bài chòi!
- Vậy chú ngâm Lục Vân Tiên đi. Chỗ Nguyệt Nga ôm bức tượng Lục Vân Tiên trầm mình dưới sông, chú cũng thích!
- Đó là lúc trước, nay mày có cạy răng tao cũng không làm thứ đó nữa đâu! Gà đã gáy kia kìa. Cho sắp bay đi ngủ. Tao vừa mới biết trẻ con phải ngủ đúng tám giờ một ngày mới chịu lớn. Để tao thức một mình vầy tằm cũng được.
* * *
Tôi bừng mắt, có tiếng cửa bị xô mạnh. Ánh sáng bên ngoài tràn vào. Trời đã sáng trắng. Khi hôm thức vầy tằm, mãi đến gà gáy mới ngủ. Chú Năm chuẩn bị việc bắt kén. Chú mở hết cửa, khiêng xếp các bủa kén lại một chỗ, trải hai chiếc nong giữa nhà, khiêng một bủa kén đặt lên. Mọi người bước đến mở gút lạt, giở nẹp, giở những cây dâu khô dính đầy kén như những hoa vàng. Giống kén bậc mày mốc, dày tơ, bán được tiền. Ai cũng mừng cho chị Bốn đánh ván cuối mùa lại được ăn to. Ông Bảy Hoá cầm một chuỗi kén dính liền nhau, giơ lên cho mọi người thấy. Kén dính liền nhau là điềm báo trước chị Bốn sẽ còn trúng tằm nữa. Sang năm, chị Bốn sẽ trúng bảy lứa tằm liên tiếp, vì có cả thảy bảy kén dính liền nhau.
Có tiếng cười nói ồn ào trước ngõ. Ông Trùm Khéo đã đến. Chính ông là người bán giống tằm cho anh Bốn Linh. Ông tiếp lời ông Bảy:
- Tại sao chỉ trúng bảy lứa? Phải trúng hai mươi lứa chớ!
Mọi người cười ồ:
- Mỗi năm làm được năm lứa tằm đã đứt hơi. Nay ông Trùm có cách làm đến hai mươi lứa!
- Thì có chi đâu! Anh chị Bốn chỉ thuê thêm bốn trai đứng buồng, làm đủ bốn buồng tằm. Mỗi buồng làm năm lứa, có phải vị chi là hai mươi lứa không nào?
Ông Trùm Khéo xắn tay áo, thét to:
- Nay non sông đã độc lập. Dân ta đã mở mày mở mặt với bốn biển năm châu, vậy ai còn chịu mặc thức vải thô dày như bao bố đó nữa? Phải mặc lụa với nhung. Nay mai nuôi mấy tằm cho đủ. Ông Bốn Linh trúng tằm, phải sắm một tủ sắt để đựng tiền. Tôi xin cam đoan như vậy!
Bọn trẻ con trong làng đứa nào cũng biết ông Trùm Khéo. Hằng năm, bắt đầu mùa xuân, ông lại xuất hiện. Ông đi qua làng, mặc chiếc ao thao màu gụ, móc trước ngực một chiếc quạt giấy thật to, cõng sau vai một chiếc bầu bằng tre. Chiếc bầu có xỏ một chiếc đòn xóc cong queo như một cái móc. Nhờ chiếc đòn xóc đó ông Trùm Khéo đã cõng được bầu. Ông nhớ hết tên họ mọi người. Khi đi ngang qua Hoà Phước, ông dừng lại, nói rất tự nhiên:
Читать дальше