Cha tôi đoán trước ở nhà vẫn còn tiếc rẻ con trâu Bĩnh nên tái bút: "Mọi việc phải tính gọn lại. Không nuôi trâu Bĩnh làm gì. Phải để cho thằng Cục đi học".
Mọi người đều phân vân. Con trâu Bĩnh đã nuôi sống gia đình tôi. Tôi lớn lên nhờ vú mẹ và nhờ công lao khó nhọc của nó. Ngày trước, khi cha tôi đi cày có đánh nó. Cái đó cũng vì bắt buộc. Cha tôi hiểu rõ nếu nó kéo cày đi chậm thì bát cơm của chúng tôi sẽ bị lúng đi. Con trâu Bĩnh về ở với chúng tôi đã hơn bảy năm. Nếu cộng những vết roi rớm máu quất vào sườn, vào chân nó thì con số có đến hàng chục vạn. Những lời chửi mắng, cho nó là con khỉ, con tinh, cần để đói cho xanh xương, có đến hàng triệu lời. Cũng may những lời chửi mắng tan ra rồi bay mất. Nếu nó đọng lại thì cả nước sông Thu Bồn cũng không rửa hết. Con Bĩnh bị mắng chửi nhiều nhất vào cuối mùa đông và đầu mùa xuân, là mùa đường mía. Thường đến tháng Chạp thì mía già. Nhà làm đường bắt đầu dựng chòi ép mía. Họ phải ép cho được vài thùng nước mía trước khi trời sáng. Đó là mùa trâu Bĩnh bị chửi mắng và đánh đập nhiều nhất.
Tôi đưa trâu Bĩnh đi ép mía thuê khắp các chòi đường trong làng. Con trâu Bĩnh rất khoẻ, nhưng vừa thấy ách che nó đã hoảng sợ. Nó biết ách che còn nặng gấp mấy ách cày. Nó lùi lại. Tôi phải kéo dây mũi thật căng. Thợ ép mía phải cho một roi thẳng cánh vào đít nó, nó mới chịu bước. Thợ ép mía nâng ách đặt lên cổ nó, cột dây rồi hô to: "Bước!". Trâu Bĩnh choãi chân rướn cổ cố bước. Bước được một chốc thì tiếng thở đã ho he, nước dãi trào ra trắng xoá. Nó cố rướn lên nhưng hai chân không bước được nữa. Thợ ép mía xông đến quất tới tấp vào mông, vào chân nó. Trâu Bĩnh quay quắt. Tôi xông vào giật roi nổi thét:
- Trời ơi! Đánh chết trâu tôi rồi!
Mấy chú thợ ép mía mỉa mai:
- Mày cưng trâu như cưng vợ mày! Đừng dắt nó đến đây nữa!
Trâu Bĩnh đi giữa roi vọt chửi mắng. Khi mở ách, nó đứng đờ ra một lúc rồi bước chệnh choạng. Hôm sau, tôi lại đưa nó đi ép mía. Nó phải cố bước để lấy được năm xu đem về đưa mẹ tôi mua gạo.
Trâu Bĩnh có những đóng góp to lớn trong gia đình.
Chị Ba đọc hai lần đoạn thư của cha tôi nói về trâu Bĩnh. Chữ nghĩa rành rành, nhưng chẳng ai muốn hiểu gì cả. Chị Ba không ngờ cha tôi lại có ý định như vậy. Từ lâu, chúng tôi xem trâu Bĩnh như một thành phần trong gia đình, không thể tách ra được. Lúc nó mới về, chị Ba đã chăm sóc nó. Nó với chị Ba cùng soi mình ở bến nước, cùng bước trên cát mịn, cùng hứng ngọn gió nồm, tình nghĩa sâu nặng lắm. Sau đó, chị Ba giao nó cho tôi. Tôi với nó cùng ngụp lặn trong nước sông. Nó bước trong trăng sao, tôi ngồi trên lưng hát véo von lúc chiều xuống. Mẹ tôi yêu nó nhất nhà. Chẳng ai muốn nó xa gia đình cả.
Về việc trả con trâu Bĩnh cho ông Phó Xáng, ý kiến anh Bốn Linh rất dứt khoát:
- Chưa cần trả cho ông Phó Xáng. Thằng Cù Lao vừa đi học vừa chăn trâu. Nếu nó bận học thì gửi trâu cho chú Năm Mùi. Chú ưng nuôi thêm con trâu để có phân bón ruộng. Chẳng phải cày bừa gì cho ông Phó Xáng nữa.
Chương 9
Anh Bốn Linh bận công tác, đã nhờ chú Năm Mùi đến giúp khi tằm lớn. Chú Năm thức dậy lúc trời chưa sáng, đốt ngọn đèn dầu. Chú định rưới cho tằm một nước dâu. Nhưng nhìn lại, chú rất ngạc nhiên! Tằm con nào cũng vàng óng cả. Không lẽ tằm đã chín hết, vì sáng nay mới là ngày tằm chộ, chín lác đác một vài con. Ngày mai mới đúng là ngày tằm chín hết. Chú Năm giụi mắt nhìn kĩ. Đúng là tằm đã chín rộ...
Chú Năm nói nửa bực dọc nửa vui đùa:
- Chết cha! Bay đẻ sớm như thế này, tao tìm bà mụ đâu kịp?
Chú Năm gọi thằng Cù Lao dậy, hốt dâu rải một lớp mỏng cho tằm bò khi nhặt khỏi dính chân.
Bên ngoài trời vừa hửng sáng. Chú Năm vén mành bước ra:
- Bọn bay đẻ sớm, tao thêm mệt! Chà, ông Bốn Linh lại đi đâu mất... Nhưng thôi. Tao cũng có cách.
Chú Năm bước ra sân. Chú đứng thẳng, dọn giọng lấy hết gân cổ nổi la làng:
- Bớ làng! Bớ làng! Bớ xóm ơi!
Tiếng la làng khủng khiếp bay đi khắp xóm, đập mọi người vùng dậy.
Trong nhà, chú Hai giật thót chạy ra:
- Chớ chuyện chi vậy, hả chú Năm?
Chú Năm không trả lời, càng la inh ỏi:
- Bớ làng! Bớ làng đến cứu...
- Bộ anh này điên sao! Người ta tưởng có án mạng đó!
Tôi chui rào chạy sang nhà anh Bốn. Chú Năm đang la làng một cách... vui vẻ.
Chú Năm la làng tiếp một chầu nữa mới chịu bước vào. Ngoài ngõ đã thấy ông Kiểm Lài hớt hơ hớt hải chạy đến hoảng hốt:
- Cái chi thế hả? Cái chi thế hả?
Ông Bảy Hoá chạy đến, tay cầm cây côn:
- Mới bừng mắt, chi mà la làng ghê quá?
Thầy Lê Hảo nói không ra hơi:
- Cách mạng lên rồi. Việc chi cũng phải lời thuận lẽ êm chớ!
Nhà anh Bốn Linh bỗng hoá rộn rịp. Ông Trưởng Đinh vai quàng chiếc mõ tre nói hổn hển:
- Có đánh người hoặc trộm trâu, phải nổi mõ cho làng biết.
Ông Tư Đàm băng rào chạy xuống. Ông Bốn Rị tay cầm con dao chạy lên. Ai cũng hỏi nhau:
- Chi dữ quá!
Chú Năm Mùi bước ra, vòng hai tay trước ngực, rất lễ phép.
- Bà con nay đến đông đủ, tôi mới dám nói. Đáng lí ra, anh Bốn Linh được ở nhà lo cho tằm. Nhưng anh bỏ việc nhà đi lo việc nước. Anh Bốn nhờ tôi đến giúp. Đúng ra, sáng mai tằm mới lớn, mới kịp tin bà con. Không ngờ nó thấy mình bận, nó chín hết cả. Làm ruộng ăn cơm nằm, làm tằm ăn cơm đứng. Việc phải làm liền, tôi phải mời bà con đến, xin mỗi người một tay...
Mọi người thở phào:
- Ôi! Tưởng cái chi!
- Ông làm tôi sợ mất máu! Tôi nghĩ cách mạng lên rồi, sao còn có việc trộm cướp? Phải bắt vạ ông này mới được!
Chú Năm Mùi vén áo giả vờ nằm xuống:
- Tôi xin nằm xuống. Bà con muốn đánh trăm roi cũng được.
Ông Bảy Hoá cười xoà:
- Trước cách mạng, người ta la làng để cứu mạng. Nay cách mạng thành công chú Năm la làng để chia vui tằm lớn. Vậy tằm đâu? Khiêng mau ra đây. Bà con mỗi người một tay, việc trời cũng xong hết!
Ông Bảy cầm cái thúng đặt úp trước sân, hô mọi người khiêng tằm ra. Tôi và thằng Cù Lao ba chân bốn cẳng chạy đi tìm mủng, tìm mo cau để đựng tằm. Tất cả xúm lại ngồi quanh nong tằm. Ông Bảy chỉ vào đám trẻ con vừa chạy đến:
- Nhỏ vậy chớ lượm tằm giỏi lắm đó!
Читать дальше