Bọn trẻ con thường bị xua đuổi, nay được ông Bảy đề cao, chen vào nhặt tằm lia lịa.
Chú Năm Mùi cho khiêng thêm một nong nữa ra sân.
Chú dặn:
- Đừng có lượm tằm xanh đó nghe! Sẽ học kĩ sư nuôi tằm đó!
Tiếng dạ răm rắp. Không ngờ đội ngũ thiếu nhi khi được động viên trở nên tích cực như vậy!
Tiếng chú Năm Mùi vang to:
- Xin nhường việc lượm tằm cho giới phụ nữ và giới thiếu nhi. Còn giới đàn ông, xin mời qua đây. Ai đời, tằm lớn rồi mà lại chưa có cái bủa nào cả.
Ai cũng thấy việc làm bủa là khẩn cấp. Phải làm thật gấp, ít nhất tám chiếc bủa để kịp cho tằm làm kén. Ông Kiểm Lài xách rựa đi hạ tre chẻ lạt. Người đặt nẹp, người trải hom dâu, người sắp cây ran, đặt hòn hào, hô nhau xỏ lạt, cột lạt, dựng bủa, làm việc tới tấp. Bủa dựng lên. Tôi và thằng Cù Lao chạy rút bã mía bó thành đuốc để thui bủa cháy hết lông tơ còn dính lại của lứa tằm trước. Chú Năm Mùi gọi tôi và thằng Cù Lao khiêng bủa quay về hướng mặt trời. Ông Bảy Hoá nhanh nhẹn không kém. Ông rải tằm, khiêng bủa, vác nong, đổ phân tằm thoăn thoắt. Từ hôm đoạn tuyệt với bộ râu dài vướng víu, chân tay ông Bảy hoá gọn ghẽ. Ông đã xin gia nhập đội tự vệ, dám thách vật với anh Bốn Linh nữa. Ông cười, nói:
- Tôi là một con dao bị vùi sâu dưới đất. Nay cách mạng đã đào lên, tôi mài cho sáng...
- Ông mài ra răng? Tôi cũng muốn mài đây. - Ông Tư Đàm hỏi.
- Không phải như mài dao, mài cuốc đâu! Không phải cắt râu là xong đâu. Tôi còn làm những gì thằng Bốn Linh làm được. Tôi tập tự vệ. Tôi sẽ cho bọn xâm lược biết chớ có mon men đến xứ này. Thằng thực dân có chặt mất đầu, tôi sẽ mọc đầu đánh trả như Khương Linh Tá.
Nhà anh Bốn Linh như có hát bội. Thằng Cù Lao cứ thoăn thoắt: khiêng nong, nhặt tằm, dồn tằm, rải tằm lia lịa. Nó biết chỉ cho bọn con nít chớ nhặt tằm xanh, tằm bệnh. Tất cả đều công nhận nó là thầy tằm. Chú Năm còn bảo nó là một trai đứng buồng loại giỏi vì nó quét buồng tằm rất sạch, biết cho tằm ăn nước khuya để tằm chóng lớn. Ông Bảy Hoá cười khẹc khẹc rao to mọi người biết nó là tay bơi lội có tài, cách mạng đã thành công, lớn lên nó sẽ làm vị thuỷ sư đô đốc, phá tan những thuyền giặc dưới nước. Và nghĩ cho cùng, theo ông, tất cả những cái đó đều do cách mạng, cách mạng có giải phóng, nó mới "vùng lên" như vậy.
* * *
Tiếng cười nói ồn ào. Chợt con Vện của chị Bốn vụt chạy té ra ngõ, ngoắt đuôi lia lịa. Chị Bốn đã về.
Chú Năm đứng lên gọi:
- Mời bà mau vô đây! Lấy nếp lấy đường ra nấu mau một nồi cháo ngọt. Phải nấu nồi to. Cách mạng lên rồi, không cần cóp nhặt từng xu chi cho mệt!
Chị Bốn đặt giỏ dâu xuống:
- Xin có ngay!
Chú Năm cúi người trên chỉếc bủa, vừa xiết dây lạt vừa gọi to hơn:
- Bà Bốn Linh ơi!
- Dạ!
- Ngày mai bà có nhớ chi không?
- Nhớ rồi. Sau bắt kén, phải cúng buồng!
- Tôi đã nhắm con gà trống của ông Bốn! Nó vừa gáy te te ở đây khi nãy. Ông Bốn ăn ở có đạo chỉ la làng vài tiếng mà bà con đã chạy đến đông đủ. Bà phải đền đáp công ơn của họ!
- Xin đền đáp!
- Đền đáp không phải nói suông là xong đâu. Người lớn ít nữa cũng phải có xôi với thịt gà. Trẻ con cũng phải chè xôi đó.
- Xin nhớ! Bắt kén xong còn phải gánh trả đòn hào, hom dâu. Cũng phải nhờ chú Năm giúp cho một ngày nữa.
- Tôi không làm nữa đâu! Tôi bị ông Bốn đấm vào vai. Vai tôi bị sưng vù lên đây này. Từ hôm ở chòm đa Lí về, tôi không làm được việc chi nữa!..
- Đã là đấu chơi thì các ông phải đánh nhau nhẹ nhẹ. Đằng này cứ thẳng tay đấm đá. Ông Bốn đã nhiều lần bị u đầu và hộc máu. Tôi sợ mất vía!
- Có gì mà sợ! Ông Bốn có chết đi thì bà cứ đem muối mắm, khỏi phải đi chợ. Nhưng ông Bốn bị ma quỷ chê rồi, chưa chết được đâu. Bà còn phải hầu hạ ông đó!
* * *
Chú Năm Mùi gọi tôi và thằng Cù Lao giúp chú quay bủa về hướng khác để tằm đỡ nắng, vì tằm đã rúc ổ.
Tằm trong nong đã nhặt xong, các chị hái dâu đội nong ra rộc kì cọ giặt giũ. Tiếng đập nong nghe phành phạch như tiếng trống lủng. Tôi và thằng Cù Lao khiêng hết giường phản ở nhà trên đem dồn xuống bếp. Bàn ghế phải cấp tốc đưa hết ra sân lấy chỗ vầy tằm. Thằng Cù Lao đổ than vào nồi, quạt lửa. Chú Năm Mùi hướng dẫn đặt bủa chụm đầu vào nhau, cứ hai bủa chụm lại thành một, giống như hai mái nhà. Dưới bủa phải đặt nồi lửa để sưởi cho tằm được ấm. Chị Bốn đã rang sẵn mấy nồi bắp để phục vụ đội ngũ vầy tằm. Tôi và thằng Cù Lao nhai bắp rang, ngồi lắng nghe chú Năm kể chuyện. Toàn những chuyện đùa ông bán trứng tằm, người đào dâu, chuyện chế giễu những kẻ ngu xuẩn, bọn quan lại hống hách. Nhiều chuyện có những chi tiết rất tục, làm chúng tôi cười lăn lóc, suýt ngã vào nồi than. Chú Năm nheo mắt cười hì hì:
- Nay cách mạng thành công tao mới dám kể cho bọn mày nghe. Trước đây tao phải kín miệng, vì nó động thời thế!
Chú Năm kể những tích tuồng hát bội. Chú thú thật đã mê hát bội đến quên ăn quên ngủ, con mắt của chú trũng xuống, sâu bằng cái chén tống, râu ria chú mọc ra, tóc dài phải búi thành một đùm sau gáy.
Tôi chứng minh thêm:
- Hèn gì thím Năm nói với mẹ cháu là thím xấu số, gặp phải thằng chồng mê hát bội! Thím Năm thề thím sẽ đốt rạp hát bội đó.
Chú Năm cười xoà:
- Cái tai mày bị lủng rồi hả? Mày nghe sai bét. Thím mày nói với tao là thím mày tốt số mới gặp được tao. Tao kể cho thím mày nghe những tuồng Tam nữ đồ vương, tuồng Đào Phi Phụng, thím mày mê tít thò lò! Nhưng thôi, bọn bay đi bươi lửa cho bủa ấm cái đã.
Chúng tôi chui vào dưới bủa, bươi lửa cho bủa ấm, lại chui ra, quây quần bên chú Năm. Chú Năm vẻ nghiêm trang:
- Bọn bay nay được thăng làm học trò. Một dạo tao cũng được thăng làm học trò! Tao học chữ Hán chớ không học quốc ngữ như bọn bay. Thầy dạy tao câu "Đệ tử phục kì lao". Thầy cắt nghĩa từng chữ: đệ tử nghĩa là học trò, phục nghĩa là phục, kì nghĩa là sửa, lao là lao. "Đệ tử phục kì lao" nghĩa là học trò phục sửa lao. Tao cũng chẳng hiểu thánh hiền muốn dạy điều chi. Sau tao nghĩ ra chữ "kì" đây có nghĩa là kì cọ, kì cọ khi ta ra tắm ngoài ao đó. Tao bèn đọc "Đệ tử phục kì lao" nghĩa là học trò phục ngoài ao. Thầy đánh tao hai roi. Nhưng ít ra tao cũng tìm được nghĩa lí của câu thánh dạy.
Читать дальше