Thằng Cù Lao chợt hỏi:
- Thế nấu đường có được đi đây đi đó không hở?
- Ấy! Đã nấu đường thì phải canh bên chảo! Phải bỏ vôi, phải múc nước mía, phải vớt bọt, phải khuấy đường. Lúc đường sắp quánh, lỡ một chút là đường khét ngay!
Thằng Cù Lao tỏ ra rất phân vân. Nghề gì bị cột chân một chỗ là nó xin vái không làm.
Tôi nhắc đến các nghề khác. Nghề làm tằm cũng bận rộn xung quanh cái nong cái né. Nghề kéo thao cũng phải ngồi bên nồi kén. Nghề chằm nón làm cho mọi người không bị cảm mạo, nghề bồi quạt làm cho mọi người có gió mát, nghề thợ nhuộm làm cho áo quần cũ trở nên mới, tất cả các nghề đó rất khó đi xa. Cả những nghề nhỏ nhất như nghề đan phên, nghề đắp ông táo cũng không hợp với nguyện vọng đi đây đi đó của thằng Cù Lao. Tôi nhớ đến những người bán hàng chạy, đi từ làng này sang làng khác. Thỉnh thoảng ông bán nồi đất gánh một gánh nồi rao to: "Ai mua nồi không?". Một lát sau vang lên tiếng rao bán chiếu, bán nong, bán vải, bán dầu rái. Tiếng rao của bác dầu rái giữa trưa vang lên cao vút. Trời càng nóng bác chạy càng nhanh. Trời nóng làm dầu rái lỏng ra, đong được lợi. Bác bán dầu rái không chỉ được đi, còn được chạy...
Cuối cùng, thằng Cù Lao thích bán dầu rái. Nhưng rất bí là không biết lấy dầu rái ở đâu. Tôi chợt nhớ ra ông thợ hàn nồi bịt bát. Ông thợ hàn nổi bịt bát đã từng làm tôi mê tít. Nghề bịt bát hàn nồi mới thật là nghề lí tưởng. Ông quảy một cái gánh. Ở một đầu gánh là một chiếc bầu, đầu bên kia là một ống bể. Ông đi khắp xóm làng, rao to:
- Trong nhà có ai bịt bát hàn nồi không?
- Vào đây, bịt cái bát.
Ông thợ bước vào, đặt gánh xuống, nhóm lò than. Ông mở bầu, bầu đựng cả một thế giới kì lạ: cái kéo nhỏ xíu, cái búa to bằng ngón chân, cái vỏ sò to bằng lòng bàn tay, cục hàn the, những miếng đồng, những mẩu thép sột soạt. Ông kéo bễ nghe phì phò. Ông nấu chảy cục chì óng ánh. Chắp, dán, mài, giũa, cái bát vỡ bỗng chốc lại lành. Ông bịt thêm trên miệng một vòng dây đồng sáng chói. Cái bát lại được đặt lên vị trí cũ. Ông nhận tiền công, lại tiếp tục quảy gánh đi nơi khác. Tiếng rao hàn nồi bịt bát chỉ còn nghe mơ hồ sau bờ tre. Thằng Cù Lao nhất định phải làm nghề này, sẽ luôn được đi đây đi đó.
* * *
Chị Ba nhiều lúc tỏ ra rất đáng yêu. Đó là những lúc chị làm món bắp lớ, hay khuấy món bánh đúc. Chị để phần tôi cả một bát đầy. Có trái ổi chị cũng mang về cho tôi. Trước ngày cướp chính quyền, đi xem tuồng Phạm Công - Cúc Hoa đến đoạn Cúc Hoa hiện hồn về thăm con, chị ôm cột khóc rưng rức, buồn suốt một ngày. Từ khi vào tự vệ, chị nói dứt khoát:
- Từ nay trở đi, không thể khóc! Nước mắt không làm cho người ta đỡ khổ. Phải như Bà Triệu, Bà Trưng mài gươm giết giặc mới hết cái khổ...
Chị vứt cho mẹ tôi cái áo dài, không thèm dùng áo đó nữa. Ý chị còn muốn sắm một thắt lưng da có đeo con dao găm lủng lẳng. Chị gọi tôi vẻ bí mật:
- Anh Bốn Linh biết mày thích vào tự vệ. Mày lại gặp anh Bốn. Anh Bốn cho mày với thằng Cù Lao cái gì đó.
- Cái chi?
- Chẳng biết nữa.
Chị Ba tủm tỉm cười như chị đã biết món quà của anh Bốn sẽ rất khá, nhưng chị chưa muốn nói tôi biết.
- Thế chị Ba đã hỏi anh Bốn nay mai làm nhà mười tầng chưa?
- Hỏi rồi. Sẽ xây nhà mười tầng. Thôi đi đi! Anh Bốn đợi.
Con bìm bịp gióng lên một hồi dài như giục chiều xuống. Cây sung như kẻ bằng mực tàu đang ngập trong ráng chiều đỏ. Tôi vừa đi vừa nghĩ bụng: "Anh Bốn cho mình cái gì hè? Chắc là con dao găm. Anh vừa được lên làm chỉ huy tự vệ ở xã, anh phải sắm súng lục. Con dao găm, chắc về phần mình. Được con dao găm, mình sẽ vào tự vệ. Thích quá! Thích quá!"
Nhà anh Bốn chưa đỏ đèn. Anh Bốn và thằng Cù Lao đang hì hục đào lỗ chôn gốc tre. Tôi trầm trồ:
- Gốc tre to quá hè! Để làm chi vậy anh Bốn?
Thằng Cù Lao vung tay:
- Để luyện gồng đó!
Nghe nói gồng là tôi đã nể. Người biết gồng, gươm chặt không đứt. Trước đây, anh Bốn thường dậy rất sớm, ra sân luyện gồng. Anh nện hai cánh tay vào cái cọc tre nghe đốp đốp. Luyện tay xong, anh luyện chân, luyện lưng, gọi là sơ bộ luyện gồng. Luyện xong anh xoa nước muối. Sau đó anh luyện vác cối đá. Anh Bốn có một cái cối giã gạo bằng đá xanh, nặng hai người khiêng. Anh ôm cái cối đá đi quanh sân năm vòng. Cái cối đó còn dùng để doạ chị Bốn. Một lần, chị Bốn cãi với anh Bốn. Anh Bốn nổi giận, vác cái cối đá đặt lên trên phản. Cái cối đá nằm trên phản đã gây bao nhiêu rắc rối cho chị Bốn. Chị bó tay, không còn đâm giã gì được! Cuối cùng, chị phải bảo nhỏ để anh Bốn hạ cái cối đá xuống đất.
Anh Bốn chưa nói là sẽ cho tôi cái gì. Tôi nóng lòng không đợi được, liền hỏi:
- Chị Ba bảo lại gặp anh để anh cho cái chi?
- Ừ, tao sẽ thưởng! Bây giờ cùng đi tắm cái đã. Nước mương trong đồng gần cồn Quai Mỏ mát lắm!
Nghe đến cồn Quai Mỏ, tôi đã ngại. Cồn Quai Mỏ nằm gần chòm đa Lí, chỗ ấy nhiều ma lắm. Tôi gợi khéo anh Bốn:
- Anh không đi tắm sông cho sướng, lại tắm trong đồng?
Anh Bốn bảo luôn tiện anh đi chấm thi. Tôi hỏi thi gì, anh không nói. Tôi hỏi nhỏ thằng Cù Lao, nó chẳng biết. Anh Bốn châm điếu thuốc xong, bước ra trước. Tôi và thằng Cù Lao theo sau. Ra khỏi nhà, trời đã tối mịt, bóng đen từ các bụi rậm bò ra phủ kín cánh đồng. Một tiếng hú từ phía chòm đa Lí kéo dài nghe rờn rợn. Một ánh đuốc đến chỗ cồn Quai Mỏ lóe lên rồi tắt biến. Tôi bị vấp mấy lần, suýt ngã. Chợt anh Bốn dừng lại:
- Cồn Quai Mỏ đây rồi! Xuống mương tắm cái chơi cho mát!
Cực chẳng đã, tôi phải làm theo. Anh Bốn nằm dài kì cọ trong mương, tiếng nước nghe bì bõm. Thỉnh thoảng anh xuýt xoa:
- Ồ, mát quá! Mát quá!
Anh Bốn vụt nhảy lên bờ, gọi chúng tôi mặc quần áo. Tôi mới mặc được áo thì anh Bốn thét lên hoảng hốt:
- Ối, nó hiện lên kia kìa! Nó hiện lên không đầu! Ối! Chúng bay ơi!
Anh rú lên rùng rợn, vụt bỏ chạy. Hồn vía của tôi đã lên mây. Ba chân bốn cẳng, tôi chạy cuống cuồng theo anh Bốn. Tôi chạy như có nghìn âm hồn đang đuổi sau lưng. Tôi ngã uỵch nhiều lần, hai chân cứ dính lại. Khi thúc vào lưng anh Bốn tôi mới rõ là anh đã dừng lại. Tim tôi đánh trống trận. Tôi hổn hển:
- Cái chi vậy anh Bốn?
Читать дальше