Thằng Cù Lao còn quả quyết là nó biết tất cả những loài bơi lội dưới nước. Cá trê không bao giờ phá nhà cả. Tôi phân tích cho nó thấy giống cá trê thường thích chui rúc trong hang. Lúc lụt to, cá trê sẽ chui vào các lỗ cột. Cột nhà bị long, nhà phải ngả. Cách giải thích của tôi cũng chưa thoả đáng. Rốt cục chúng tôi phải tưởng tượng một con cá trê to bằng cái đình làng, có đôi ngạnh to bằng cây cột. Nó lách đến đâu thì nhà cửa sụp đổ đến đó. Có một con cá trê như vậy nom cũng rất lạ. Dần dần chúng tôi tin nhất định phải có một con cá trê to như vậy. Câu chuyện đến tai chị Ba. Chị Ba giảng giải:
- Ba ba là ba ba. Bỏ bể là bỏ bể. Đó là những chữ riêng rẽ không dính dáng chi nhau cả. Cũng như cá trê là cá trê, phá nhà là phá nhà. Những chữ đó không ghép thành câu mà chỉ để đánh vần. Chị đã học những chữ đó trong quyển quốc văn lớp đồng ấu.
Nghe chị Ba giải thích xong, chuyện ba ba, cá trê chẳng còn thú vị gì nữa. Cách giải thích của chị Ba đã quét sạch cái màn sương kỳ diệu bao phủ chung quanh cái kỳ lạ. Những chữ "ba ba bỏ bể", "cá trê phá nhà" bỗng chốc hoá trơ trụi, khô héo, không có ý nghĩa gì nữa.
* * *
Chợt một hôm, thầy Lê Hảo cải cách hoàn toàn nội dung giảng dạy. Thầy tuyên bố với cả lớp những chuyện "ba ba", "cá trê" là những chuyện của sách thời đế quốc phong kiến. Từ nay trở đi, tất cả học trò sẽ học những bài hoàn toàn mới. Thầy bảo cả lớp nộp vở xếp vào thành một chồng để thầy chép bài thơ hay. Những đứa chưa biết đánh vần cũng phải học thuộc bài thơ cái đã. Thuộc thơ trước, đánh vần sau. Một số bài thơ yêu nước của các nhà chí sĩ được thầy Lê Hảo dạy, chúng tôi đọc to khắp làng xóm:
Ngồi ngẫm chuyện năm châu trên trái đất
Sóng văn minh dồn dập cả phong trào
Kìa như ai, sức thì mạnh, của thì nhiều
Trời há lẽ riêng yêu chi một cõi
Sao ta cứ dã man quen thói...
...............................................
Á tế á năm châu là bậc nhất
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn
Cuộc đời mở hội doanh hoàn
Anh hùng bốn bể giang san một nhà...
Đại để bài nào cũng có những năm châu, bốn bể, có sóng, có bão táp, phong ba. Cái đó thằng Cù Lao rất thích, vì nó từng thấy ở cù lao Chàm. Nó đọc thật to, khắp xóm đều nghe rõ. Tôi và thằng Cù Lao thấy mình như đang lượn quanh bốn bể, giữa mưa Âu gió Á. Ai cũng khen thầy Lê Hảo cho ra nhưng bài học nghe réo rắt, quả là hay! Chị Bốn, chị Ba nghe qua là thuộc như cháo, bảo tôi xin thầy chép thêm nhiều bài nữa.
Mẹ tôi cũng khen:
- Ừ, nghe thiệt là hay!
Thằng Cù Lao thích thú thả hết giọng, rống vỡ nhà vỡ cửa.
Mẹ tôi còn dặn chị Ba, chị Bốn:
- Chúng nó đã là học trò. Từ rày chớ sai chúng nó nấu cơm rửa bát. Đó là chuyện của con gái đàn bà. Đừng để cái "tâm" của chúng bị mờ vì khói và bồ hóng ở nhà bếp. Phải giữ cho học trò sáng dạ để học trò học cho hay chữ, cái đó không chi bằng.
* * *
Ở lớp học chúng tôi thi nhau rống như ễnh ương:
Sao ta cứ dã man quen thói
Khom thân nô mà luồn cúi dưới cường quyền?
Thầy Lê Hảo bày tiếp:
Hú hồn các chú thiếu niên...
Chợt thầy vùng dậy kêu thất thanh:
- Uý thôi rồi! Các trò ơi! Con heo của tôi nhảy chuồng!
Nghe tiếng gọi hoảng hốt, chúng tôi bật lò xo, vứt sách vở phóc ra sân. Thằng Cù Lao phóng ra trước. Tiếng kêu la ầm ĩ tưởng có hùm vừa xổng cũi. Đứa nào cũng sẵn sàng hi sinh tính mạng bắt cho kì được con lợn của thầy.
Con lợn đang ung dung bước đến chỗ hàng rào. Thầy chưởi:
- Mẹ cha mày! Phen ni phải mời cho được lão bán thịt. Khôn vong thì quay về, không tao xuỵt chó cắn chết!
Con lợn quay lại nheo mắt nhìn như muốn xem học trò có bao nhiêu đứa, và có đứa nào chạy giỏi không. Nhìn xong, nó ung dung ngoắt đuôi rúc rào chui sang vườn bên cạnh.
Chúng tôi gọi nhau chạy vòng ra phía trước. Con lợn như đoán được ý đồ của chúng tôi, liền chui một mạch ra bãi dâu. Chúng tôi vừa hét vừa rượt theo. Con lợn cứ chạy loanh quanh trên bãi cát. Có lúc nó đổi hướng bất ngờ làm nhiều đứa ngã uỵch. Chạy được một lúc, đứa nào nghe cũng đuối sức. Có đứa mệt quá đã nằm dài. Chân tay duỗi thẳng, miệng thở hồng hộc. Thằng Cù Lao cứ phóng lên đón đầu. Chợt nó nhào về phía trước. Con lợn đã dính chặt trong tay nó, đang vùng vẫy la thét. Thằng Cù Lao hô to:
- Mau mau, nắm chân trước!
Chúng tôi cứ nhốn nháo chạy chung quanh vì con lợn vừa thét vừa lồng lộn khiếp quá!
Thầy Lê Hảo chạy đến đè lên đầu lợn rồi trói lợn lại. Trói xong, chúng tôi mới dám ra tay.
Việc bắt lợn đã đánh dấu một giai đoạn chuyển biến của bọn trẻ. Chúng xầm xì:
- Thằng Cù Lao chạy tài quá!
- Nó mạnh thiệt, bay nè!
- Thôi chớ có chọc nó. Nó mà chụp được thì không thoát được đâu!
Chúng tôi rất mong cho lợn của thầy Lê Hảo vài hôm lại nhảy chuồng một lần để có dịp được chạy nhảy bắt lợn. Nhưng rất tiếc từ hôm gặp phải tay thằng Cù Lao, con lợn đã biết rút kinh nghiệm. Ăn xong nó cứ ngủ ngoan ngoãn trong chuồng, không thích nhảy cao và chạy việt dã nữa.
Thằng Cù Lao chịu đổi chiếc mũ nồi để lấy một đôi chim sẻ. Nó đến lớp, để đầu trần. Mất chiếc mũ nồi bỗng nhiên bọn trẻ thấy nó chẳng có gì khác nhưng đứa nhỏ trong làng. Ngửi áo quần cũng chẳng còn cái mùi khét khét của lính Nhật. Chúng bảo nhau:
- Thằng Cù Lao không phải mọi biển. Nhưng không hiểu sao nó ở ngoài biển mà lại biết được trong mông ông Bảy có một cái sẹo. Những bí mật đâu đâu nó cũng biết được. Nghề tằm tơ, nghề đường mía nó thuộc làu.
Nó nói như một thợ nấu đường:
- Nước mía luộc xong phải lên lóng. Sau đó rút nỏ để xuống lóng. Uống một bát nước "chè hai" là khoẻ ra ngay.
Nó giảng thêm:
- Chè hai không phải là nước chè đâu. Nó là nước mía đã luộc múc đổ vào thùng lóng để xuống lóng đó.
Nó chỉ lên cây sung, nói với bọn chăn trâu:
- Trên kia kìa, có cái hốc to lắm!
Bọn trẻ hỏi lại chú Năm Mùi và anh Bốn Linh. Quả thật ở chỗ chạc ba trên cây sung có một cái hốc rất to.
Nó đi chợ Quảng Huế về, bọn chăn trâu hỏi:
- Chợ Quảng Huế ra răng? Có to không?
Nó làm như một cụ già từng sống lâu năm ở quê đang kể lại chuyện xưa trước mặt con cháu:
Читать дальше