Khi Pan-ten đã đi rồi, Grây ngồi lại một lúc, nhìn chăm chăm về phía cửa hé mở, rồi anh trở về phòng mình. Ở đây, lúc thì anh ngồi, lúc ngả lưng xuống giường, lúc lắng nghe tiếng dây xích buộc neo đang kéo lên kêu loảng xoảng. Anh sửa soạn đi lên boong tàu nhưng rồi lại ngập ngừng nghĩ ngợi và quay lại bên bàn, lấy đầu ngón tay vạch một đường thẳng lên mặt khăn trải bàn. Tiếng đập mạnh vào cửa làm anh chợt tỉnh, anh vặn quả đấm cửa, và Lê-chi-ca vào. Anh thuỷ thủ thở hổn hển, đứng sững lại với vẻ mặt của người vừa phi báo tin hoãn cuộc hành hình.
— “Hãy bay đi ngay, Lê-chi-ca!” — tôi tự bảo như vậy, — ngay từ lúc còn đứng ở chỗ cái đập, nhìn thấy thuỷ thủ tàu ta đang hò nhau kéo neo lên. Mắt tôi tinh như mắt chim ưng ấy. Thế là tôi vội “bay” xuống thuyền, tôi thở hồng hộc vào người chèo thuyền đến nỗi ông ta toát cả mồ hôi vì lo quá. Thưa thuyền trưởng, chẳng lẽ anh muốn quẳng tôi lại trên bờ sao?
— Lê-chi-ca, — Grây vừa nói vừa nhìn kỹ vào đôi mắt đỏ ngầu của người thuỷ thủ, — tôi chờ anh gần hết buổi sáng rồi. Anh đã giội nước lạnh lên gáy cho tỉnh rượu chưa đấy?
— Giội rồi. Không nhiều bằng số rượu đã uống vào bụng, nhưng đã giội. Mọi việc đã làm xong.
— Anh nói xem nào.
— Không cần phải nói đâu, thưa thuyền trưởng. Đây, tất cả tôi đã viết vào đây rồi. Anh cầm lấy mà xem. Tôi đã cố lắm đấy. Tôi đi đây.
— Đi đâu?
— Nhìn mắt anh, tôi cũng biết anh đang trách tôi còn giội ít nước lạnh lên gáy quá.
Anh ta quay đi rồi ra khỏi phòng với dáng đi lạ lẫm của người mù. Grây lật tờ giấy ra, những dòng chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, xiêu vẹo. Lê-chi-ca viết thế này:
“Theo lệnh đã giao, sau lúc năm giờ tôi đi ra ngoài đường làng. Nhà cô ấy có mái màu xám, có hai cửa sổ mỗi bên, cạnh nhà có vườn rau. Cô gái đi ra khỏi nhà hai lần: một lần đi lấy nước, một lần đi lấy vỏ cây đun bếp. Đến lúc trời tối, tôi có ghé mắt vào cửa sổ nhưng không nhìn thấy gì vì cửa sổ có rèm che”.
Sau đó, Lê-chi-ca ghi tiếp vài câu về đặc điểm gia đình, chắc là thu lượm được qua câu chuyện bên bàn rượu, bởi vì bất ngờ cuối mảnh giấy có câu: “Tôi đã phải chi một ít tiền của mình”.
Nhưng cốt lõi của những điều Lê-chi-ca viết lại chỉ nói lên những cái chúng ta đã biết qua chương đầu cuốn sách này. Grây nhét mảnh giấy vào ngăn bàn, huýt sáo gọi người trực nhật lại và bảo anh ta đi tìm Pan-ten. Nhưng người đến không phải là trợ lý của anh mà lại là thuỷ thủ trưởng Át-vút, vừa đi vừa kéo ống tay áo xuống.
Anh ta nói:
— Chúng tôi đã nhổ neo thì Pan-ten bảo đến gặp anh để xin ý kiến. Pan-ten đang bận: anh ta đang phải đối phó với một đám người mang kèn trống và Vi-ô-lông. Anh gọi họ lên tàu à? Pan-ten mời anh đến ngay, một mình anh ta không biết xoay xở thế nào.
— Phải đấy, Át-vút ạ, — Grây nói. — Đúng là tôi đã gọi các nhạc công ấy đấy. Anh hãy bảo họ tạm vào buồng thuỷ thủ đã, rồi sẽ thu xếp chỗ cho họ sau. Át-vút, anh hãy nói với họ và anh em thuỷ thủ rằng mười lăm phút nữa, tôi sẽ lên boong. Cứ tập hợp trước ở đấy đi, anh và Pan-ten chắc sẽ làm theo lời tôi. Át-vút rướn lông mày bên trái lên, đứng nghiêng người ở chỗ cửa ra vào rồi đi khỏi. Grây úp mặt vào lòng bàn tay hơn mười phút liền. Anh không chuẩn bị gì mà cũng không dự tính điều gì, anh chỉ muốn im lặng suy tưởng. Trong lúc ấy, mọi người sốt ruột chờ anh với vẻ tò mò, phỏng đoán. Anh bước ra và nhìn thấy trên gương mặt họ vẻ chờ đợi những điều gì thật khó tin. Nhưng vì anh coi mọi chuyện đang xảy ra là hoàn toàn bình thường, nên anh cảm hấy hơi bực mình khi những người khác lại băn khoăn như vậy.
— Không có gì đặc biệt, các bạn ạ, — Grây nói và ngồi xuống bậc thang. — Chúng ta sẽ thả neo ở vùng cửa sông cho đến khi thay hết vải buồm. Các bạn đã thấy người ta đem lụa đỏ lên tàu chúng ta đấy. Dưới sự chỉ dẫn của ông Bơ-len, chúng ta sẽ làm những cánh buồm mới cho tàu Bí mật. Sau đó chúng ta sẽ lại nhổ neo, — đi đâu… thì tôi chưa nói, nhưng dù sao cũng không xa đây lắm. Tôi sẽ cho tàu đến chỗ vợ tôi. Cô ta chưa phải là vợ tôi, nhưng sẽ là vợ tôi. Tôi cần có con tàu với cánh buồm đỏ thắm để cho cô có thể nhận ra chúng ta từ đằng xa, như đã thỏa thuận trước với cô ấy. Đấy, tất cả là như thế. Các bạn thấy chưa, ở đây chẳng có gì là bí ẩn cả. Thôi, không cần phải nói thêm gì về chuyện đó nữa.
— Phải rồi, — Át-vút nói. Qua vẻ mặt tươi cười của các thuỷ thủ, anh nhận thấy họ bối rối một cách thú vị và không dám nói gì. — Thưa thuyền trưởng, hoá ra chuyện là như vậy… Tất nhiên chúng tôi không phải là người xét đoán về chuyện đó. Anh muốn thế nào thì sẽ như thế. Xin chúc mừng anh.
— Cám ơn anh!
Grây bắt chặt tay người thuỷ thủ trưởng, anh này bóp lại mạnh đến nỗi Grây phải rút tay ra. Tiếp đó các thuỷ thủ lần lượt đi qua trước mặt Grây, nhìn anh với cái nhìn ấm áp rụt rè, ấp úng chúc mừng anh. Không ai hò hét, làm ồn — các thuỷ thủ cảm thấy trong những câu nói ngắt quãng của thuyền trưởng một cái gì đó không hoàn toàn bình thường. Pan-ten thở dài khoan khoái và vui ra mặt — cảm giác nặng nề khó hiểu ban nãy đã tan biến. Chỉ có một anh thợ mộc trên tàu là tỏ ra không thích thú, anh ta uể oải bắt tay Grây và cau có hỏi:
— Sao thuyền trưởng lại nghĩ ra chuyện như vậy?
— Thì cũng giống như anh bổ rìu xuống, thế thôi, — Grây nói. — Xim-me này, anh dẫn dàn nhạc của anh lại đây xem nào.
Xim-me vỗ vào lưng từng người rồi đẩy đến trước mặt Grây. Tất cả là bảy người ăn mặc rất lôi thôi.
— Đây, — Xim-me nói, — đây là anh thổi kèn tơ-rôm-bôn, không phải thổi mà là gào thét như súng đại bác. Hai cậu trai trẻ không râu này thổi kèn đồng, nghe họ thổi thì chỉ muốn đi đánh nhau ngay. Đây là người thổi coóc-nê-pit-tông, còn đây là cây vi-ô-lông thứ hai. Tất cả đều có khả năng hoà tấu rất ăn với tiếng đàn của tôi. Còn đây là nhân vật chủ chốt của dàn nhạc chúng tôi — anh Phơ-rít chuyên đánh trống. Mấy anh đánh trống thường có vẻ mặt ủ ê, nhưng anh Phơ-rít đây thì bao giờ cũng gõ trống rất say sưa. Trong tiếng trống của anh có cái gì đó cởi mở, thẳng thắn như cây dùi gỗ của anh. Mọi việc như thế là được rồi chứ, thưa thuyền trưởng?
Читать дальше